Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Chỉ thị
của Lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải
phóng quân được thành lập. Cũng từ đó, ngày 22/12 trở thành ngày có ý
nghĩa lịch sử trọng đại, cũng là ngày truyền thống của Quân đội nhân dân
Việt Nam. Tên gọi “Quân đội nhân dân” là do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt
với ý nghĩa “ từ nhân dân mà ra, vì nhân dân phục vụ”.
Bác Hồ thăm một đơn vị bộ đội thuộc Quân khu 4 (năm 1961). Ảnh:Tư liệu
Tháng 12-1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh ra chỉ
thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Chỉ thị nhấn
mạnh: "Tên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân nghĩa là chính trị
quan trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền..., đồng thời nó là khởi
điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc..."
Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng quân của lãnh tụ Hồ Chí Minh tuy ngắn nhưng rất súc
tích. Bao gồm các vấn đề chủ yếu về đường lối quân sự của Đảng ta như:
Vấn đề kháng chiến toàn dân, động viên và vũ trang toàn dân, nguyên tắc
xây dựng lực lượng võ trang cách mạng, phương châm xây dựng 3 thứ quân,
phương thức hoạt động kết hợp quân sự với chính trị của lực lượng võ
trang, nguyên tắc tác chiến và chiến thuật du kích của lực lượng võ
trang.
Ngày 22-12-1944, tại khu rừng thuộc huyện
Nguyên Bình (Cao Bằng), Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã
chính thức làm lễ thành lập, gồm 3 tiểu đội với 34 chiến sĩ được lựa
chọn từ những chiến sĩ Cao-Bắc-Lạng,do đồng chí Võ Nguyên Giáp trực tiếp
chỉ huy. Đây là đơn vị chủ lực đầu tiên của lực lượng vũ trang cách
mạng và là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Dưới lá cờ đỏ sao
vàng, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã long trọng đọc 10 lời
tuyên thệ.
34 chiến sĩ Cao - Bắc - Lạng này là con
em các tầng lớp nhân dân bị áp bức, họ có lòng yêu nước, có tinh thần
kiên quyết, dũng cảm, chí căm thù địch rất cao, đã siết chặt họ thành
một khối vững chắc.
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
do đồng chí Hoàng Sâm làm đội trưởng, đồng chí Xích Thắng (Dương Mạc
Thạch) làm chính trị viên, đồng chí Hoàng Văn Thái phụ trách Kế
hoạch-Tình báo, đồng chí Vân Tiên (Lộc Văn Lùng) quản lý. Đội có chi bộ
Đảng lãnh đạo.
Ngày 15 tháng 4 năm 1945, Hội nghị Quân
sự cách mạng Bắc Kỳ họp tại Hiệp Hòa, Bắc Giang quyết định Việt Nam
Tuyên truyền Giải phóng quân sáp nhập với lực lượng Cứu quốc quân do Chu
Văn Tấn chỉ huy, đổi tên thành Giải phóng quân, lực lượng quân sự chính
của Việt Minh để giành chính quyền năm 1945. Lễ hợp nhất được tổ chức
ngày 15 tháng 5 năm 1945 tại rừng Thàn Mát, xã Định Biên, huyện Định Hóa
(Thái Nguyên).
Trận đánh đầu tiên của đội Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng quân là trận Phai Khắt, Nà Ngần ngày 25 và 26 tháng
12 năm 1944. Hai trận đánh trên thắng lợi đã mở đầu truyền thống đánh
tiêu diệt, đánh chắc thắng, đánh thắng trận đầu của quân đội ta suốt hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cho đến ngày thắng lợi hoàn
toàn.
Ngày 16
tháng 8 năm 1945, trong Cách mạng Tháng Tám, khi tiến đánh Thái Nguyên,
quân số Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã khoảng 450 người, biên
chế thành một chi đội (tiểu đoàn), do Lâm Cẩm Như làm chi đội trưởng.
Sau 7 ngày, quân Nhật ở Thái Nguyên mới chịu chấp nhận giao nộp vũ
khí cho Giải phóng quân.
Từ năm 1945, Giải phóng quân của Việt
Minh là lực lượng nòng cốt quân đội quốc gia của chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Tháng 11 năm 1945 Việt Nam giải phóng quân đổi tên
thành Vệ quốc đoàn, còn gọi là Vệ quốc quân. Lúc này quân số khoảng
50.000 người, tổ chức thành khoảng 40 chi đội ở hầu hết các tỉnh Bắc
Bộ và Trung Bộ. Một số chi đội đã "Nam tiến" để giúp quân dân miền Nam
chống lại quân Pháp đang tấn công trở lại ở Nam Bộ.
Ngày 22 tháng 5 năm 1946, theo Sắc lệnh
71/SL của Chủ tịch nước, Vệ quốc đoàn đổi tên thành Quân đội Quốc gia
Việt Nam, được đặt dưới sự chỉ huy tập trung thống nhất của Bộ Tổng tham
mưu. Quân đội tổ chức biên chế thống nhất theo trung đoàn, tiểu
đoàn, đại đội…
Từ ngày thành lập, Đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân luôn phát triển và trưởng thành. Ngày 22-12-1944
được xác định là ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, đánh dấu sự
ra đời của một tổ chức quân sự mới của dân tộc ta. Một quân đội của dân,
do dân, vì dân; luôn gắn bó máu thịt với dân, luôn luôn được dân tin
yêu, đùm bọc.
Ngày 24 tháng 9 năm 1954, Thủ tướng Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Quyết định số 400/TTg quy
định "Quân đội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ nay gọi thống nhất
là: Quân đội nhân dân Việt Nam". Danh xưng này được sử dụng cho đến ngày
nay.
Năm 1989, theo chỉ thị của Ban bí thư
Trung ương Đảng và quyết định của Chính phủ, ngày 22/12 hàng năm không
chỉ là ngày kỷ niệm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam mà còn
là Ngày hội Quốc phòng Toàn dân.
Từ đó, mỗi năm, cứ
đến ngày này, toàn dân Việt Nam lại tiến hành các hoạt động hướng vào
chủ đề quốc phòng và quân đội, nhằm tuyên truyền sâu rộng truyền thống
đánh giặc giữ nước của dân tộc và phẩm chất bộ đội Cụ Hồ, giáo dục lòng
yêu nước, động viên mọi công dân chăm lo củng cố quốc phòng, xây dựng
quân đội, bảo vệ Tổ quốc.